Những ai có nguy cơ mắc phải bệnh thiếu máu cổ tử cung?

Chứng thiếu máu cổ tử cung tương đối hiếm gặp, chỉ xảy ra ở 1-2% ở tất cả các lần mang thai, nhưng có thể gây ra khoảng 20-25% nguy cơ sẩy thai trong thai kì thứ hai. Vậy những ai có nguy cơ mắc bệnh thiếu máu cổ tử cung?

Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ bị bệnh thiếu máu cổ tử cung ( bất túc CTC )?

1. Điều kiện bẩm sinh:

Các bất thường trong tử cung và các rối loạn di truyền gây ảnh hưởng đến một dạng chất xơ trong protein làm cho các mô liên kết của cơ thể (collagen) có thể gây ra khiếm khuyết ở cổ tử cung. Ngoài ra, việc tiếp xúc với diethylstilbestrol (DES), một dạng tổng hợp của hormone estrogen, trước khi sinh cũng liên quan đến tình trạng này.

2. Chấn thương cổ tử cung:

Nếu bị rách cổ tử cung trong thời gian chuyển dạ và sinh nở trước đó, thì sản phụ có thể bị chứng bất túc cổ tử cung. Các thủ tục phẫu thuật khác có liên quan đến cổ tử cung, ví dụ như để xét nghiệm Pap bất thường, cũng có thể gây ra thiệt hại gây ra chứng thiếu máu cổ tử cung.

3. Chải và nạo vét:

Thủ tục này được sử dụng để chẩn đoán hoặc điều trị các tình trạng tử cung khác nhau, chẳng hạn như chảy máu nặng hoặc để làm sạch lớp màng trong tử cung sau khi sẩy thai hoặc phá thai. Đôi khi, phương pháp này có thể gây tổn thương cấu trúc cổ tử cung.

Chải và nạo vét cổ tử cung gây ra bệnh thiếu máu cổ tử cung

Những triệu chứng của bệnh thiếu máu cổ tử cung là gì?

Hiện nay, căn bệnh này thường không gây ra bất kỳ triệu chứng gì khi cổ tử cung bắt đầu mở trong thời kỳ mang thai đầu. Tuy nhiên sau vài ngày hoặc vài tuần, người bệnh có thể cảm thấy khó chịu nhẹ, và bệnh thường bắt đầu ở tuần 14 đến 20 trong thai kỳ. Vì thế nếu xảy ra các triệu chứng sau đây người bệnh nên theo dõi bao gồm:

  • Một cảm giác áp lực ở phần khung chậu.
  • Chứng đau lưng.
  • Chuột rút nhẹ ở bụng.
  • Sự thay đổi xuất huyết âm đạo.
  • Chảy máu âm đạo nhẹ.

Triệu chứng của bệnh thiếu máu cổ tử cung

Những kỹ thuật y tế được dùng để chẩn đoán bệnh bất túc cổ tử cung là gì?

Sau đây là một số thử nghiệm thường thấy để chẩn đoán căn bệnh này như:

  • Siêu âm qua âm đạo
  • Kiểm tra trong phòng thí nghiệm. Nếu màng trong bào thai có thể nhìn thấy được và siêu âm có dấu hiệu viêm nhưng người bệnh không có triệu chứng nhiễm trùng, bác sĩ có thể tiến hành thử nghiệm một mẫu nước ối để chẩn đoán hoặc loại trừ viêm màng ối.

Những phương pháp dùng để điều trị bệnh bất túc cổ tử cung là gì?

Để điều trị căn bệnh này bác sĩ có thể áp dụng một số phương pháp sau:

1. Bổ sung progesterone:

Nếu người bệnh có tiền sử sinh non, bác sĩ có thể đề nghị tiêm hydroxyprogesterone caproate (Makena®) hàng tuần trong thai kỳ thứ hai, đây là một dạng hormone progesterone. Tuy nhiên, hiện tại cần nghiên cứu thêm để xác định việc sử dụng tốt nhất progesterone trong điều trị chứng bất túc cổ tử cung. Và dường như việc bằng điều trị progesterone không đem lại nhiều lợi ích khi mang thai cặp song sinh hoặc hơn.

Bổ sung progesterone

2. Siêu âm nối tiếp:

Nếu người bệnh có tiền sử sảy thai sớm hoặc bị tổn thương cổ tử cung trong các lần sinh con trước đó, bác sĩ có thể bắt đầu theo dõi cẩn thận chiều dài cổ tử cung bằng cách cho siêu âm 2 tuần/lần từ tuần 15 đến tuần 24 của thai kỳ. Tuy nhiên nếu cổ tử cung của người bệnh bắt đầu mở hoặc trở nên ngắn hơn so với chiều dài nhất định, bác sĩ có thể đề nghị họ nên khâu cổ tử cung.

3. Khâu cổ tử cung:

Nếu người bệnh có thai dưới 24 tuần hoặc có tiền sử sinh sớm và siêu âm cho thấy cổ tử cung đang mở, một thủ tục phẫu thuật được gọi là khâu cổ tử cung có thể giúp ngăn ngừa sinh non. Trong thủ tục này, cổ tử cung bị khâu lại với khâu cứng và các vết khâu sẽ được lấy ra trong tháng cuối cùng của thai kỳ hoặc trong khi chuyển dạ.

Nguồn : Sức khỏe cộng đồng