Yêu cầu đặt ra của GMHS là đảm bảo sức khỏe, sự an toàn cho người mẹ và tính mạng cũng như sự phát triển lâu dài cho con; đồng thời, đảm bảo thuận lợi tối đa cho phẫu thuật viên. Để đạt được những yêu cầu đó, bác sĩ GMHS phải nắm vững và hiểu biết về những thay đổi sinh lý của sản phụ có thể xảy ra, nhằm kết hợp với thầy thuốc tốt nhất trong việc theo dõi và chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và em bé.
* Hệ tim mạch: Hệ thống tim mạch chịu sự thay đổi rất lớn nhằm đáp ứng những đòi hỏi tăng lên ở người mẹ và thai nhi. Khối lượng máu tăng dần trong quá trình mang thai, tăng nhanh tối đa trong 3 tháng giữa, gây quá tải tuần hoàn cho chị em bị mắc bệnh lý tim mạch. Vì thế, những sản phụ mắc bệnh này, sau mỗi lần mang thai, bệnh tim sẽ diễn biến nặng hơn. Cung lượng tim tăng từ 30 – 40% trong 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo tăng ít hơn. Trong thời gian chuyển dạ, cung lượng tim tăng do tăng nhịp tim và tăng thể tích co bóp. Cung lượng tim tăng cao nhất ngay sau khi sổ thai và có thể vượt trên 80% trước chuyển dạ. Do vậy, tai biến tim mạch thường xảy ra trong giai đoạn này. Từ tuần thứ 28, cung lượng tim phụ thuộc cả vào tư thế sản phụ. Nếu sản phụ nằm ngửa, tử cung chèn ép vào tĩnh mạch chủ dưới, cản trở máu về tim gây tụt huyết áp từ đó, làm giảm tưới máu rau thai, có thể gây suy thai. Nếu bị hạ huyết áp nhiều có thể choáng, tụt huyết áp, tái nhợt, vã mồ hôi, nôn… Howard gọi là “hội chứng hạ huyết áp nằm ngửa”, có thể đề phòng hội chứng này bằng cách đẩy tử cung sang trái, nằm nghiêng trái hoặc kê gối dưới hông phải (cao 15 – 20o). Phụ nữ có thai to hoặc đa thai ở những tháng cuối thai kỳ thường không nằm ngửa được.
* Về hô hấp: Thể tích hô hấp thay đổi không đáng kể, chủ yếu thay đổi dung lượng dự trữ chức năng. Do bụng to, cơ hoành bị đẩy lên cao nên khi thở, ngực tăng. Trong thời gian có thai, các mao mạch ở khí phế quản bị phù nề xung huyết, tăng tiết dịch, rất dễ bị viêm nhiễm, chảy máu.
* Hệ tiêu hóa: Gastrin rau thai làm dạ dày tăng tiết axít. Bên cạnh đó, do môn vị bị chèn ép, áp lực trong dạ dày tăng, trương lực cơ vòng thực quản giảm do rau tiết progesteron, dạ dày lại nằm ngang nên bị ứ đọng nhiều hơn và dễ nôn, trào ngược trong khi gây mê. Vì vậy, các sản phụ khi có chỉ định mổ thường được dặn dò không được ăn uống gì, đề phòng trường hợp khó gây tê, phải gây mê để mổ lấy thai.
* Đông cầm máu: Xu hướng tăng đông do tăng các yếu tố đông máu (fibrinogen, yếu tố VII, VIII, X…) và giảm các yếu tố ức chế đông máu (antithrombin III, protein S, yếu tố hoạt hóa plasminogen…). Do đó, thai phụ dễ bị tắc mạch, đặc biệt là chị em béo phì. Vì thế, sau mổ sản phụ nên vận động sớm để không những phòng tránh bế sản dịch mà còn phòng tránh nguy cơ tắc mạch.
* Thay đổi ở gan: Các loại men gan như SGOT, SGPT, LDH… tăng nhẹ trong thời gian có thai. Albumin giảm mặc dù nồng độ protein toàn phần tăng. Do đó, nếu phải dùng thuốc thì nồng độ thuốc tự do trong huyết tương cao, dễ gây quá liều. Cholinesterase huyết tương giảm nhưng không làm kéo dài thời gian tác dụng của thuốc giãn cơ succinylcholin và thuốc tê.
* Thay đổi ở thận: Progesteron gây giãn bể thận và niệu quản. Aldosteron tăng gây tăng khối lượng dịch ở nội mạch và cung lượng tim dẫn đến tăng lọc ở cầu thận. Nội tiết tố lactogen rau (human placental lactogen) và cortisol tăng gây tăng đường huyết dẫn đến mức lọc qua cầu thận tăng. Vì thế, thai phụ dễ bị tăng đường niệu.
* Hệ thần kinh: Nguyên nhân thay đổi là do hoạt động của progesteron và endorphin. Ngưỡng chịu đau tăng do tăng hoạt động của endorphin. Do vậy, nếu phải gây mê thì liều lượng thuốc mê cũng cần hạn chế, giảm xuống mức tối thiểu. Bởi áp lực trong ổ bụng tăng làm căng các tĩnh mạch khoang ngoài màng cứng gây giảm dung tích khoang và dịch não tủy. Vì thế, nếu phải gây tê để mổ liều lượng thuốc tê cũng giảm. Ngoài ra còn một số thay đổi ở các cơ quan bộ phận khác nhưng ít liên quan tới GMHS.
Nhờ những hiểu biết ngày càng đầy đủ về những thay đổi sinh lý ở bà Bầu mà những can thiệp về GMHS nói riêng và y học nói chung đối với thai phụ ngày càng an toàn và hiệu quả.
Ở nước ta cũng như trên thế giới, tỷ lệ mổ lấy thai ngày càng tăng. Ở Mỹ, trước năm 1984 chiếm 3 – 8%, ngày nay chiếm khoảng 9 – 30% tùy theo địa phương và đặc tính của cư dân từng vùng. Tại BV Phụ sản Trung ương, tỷ lệ mổ cũng chiếm khoảng 30%. |
BV Phụ Sản Trung ương
Mọi phản ánh, ý kiến đóng góp, thông tin nóng, bài vở cộng tác của độc giả có thể gửi cho Ban biên tập theo địa chỉ: Email: info@bau.vn / Hotline: 0904 666 276
Nguồn : bau.vn